Quá trình đổi mới tư duy của Đảng về chính sách xã hội

Hội nghị truyền thông chính sách được kết nối trực tuyến đến trụ sở UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương – Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Đổi mới tư duy về chính sách xã hội được thể hiện rõ qua các chủ trương của mỗi kỳ đại hội. Đại hội lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, gia đình, quan hệ giai cấp, dân tộc… thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội”. Đến Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” và “Các vấn đề chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội”. Các kỳ đại hội tiếp theo, vấn đề chính sách xã hội luôn được khẳng định “Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển”. Mục tiêu cơ bản của chính sách xã hội là bảo đảm ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển, hướng tới sự công bằng, tiến bộ xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân. Chính sách xã hội bao trùm trên mọi mặt của đời sống con người, như: điều kiện lao động, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe… và luôn gắn chặt, phụ thuộc rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế, bản chất chính trị – xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Hội nghị Trung ương 5 khóa XI ngày 1/6/2012 ban hành Nghị quyết một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 xác định “chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước. Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ”.

Bên cạnh đó, nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng tiếp tục được ban hành nhằm cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về chính sách xã hội, như: Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020, xác định bảo niểm xã hội và bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị-xã hội và phát triển kinh tế-xã hội. Nghị quyết số 11- NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bổ sung thêm quan điểm coi việc tiếp tục hoàn thiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động là nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện thể chế để phát triển đồng bộ, vận hành thông suốt các thị trường; đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, thống nhất; huy động sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, cộng đồng xã hội thực hiện chính sách an sinh xã hội; khuyến khích người dân tự nguyện tham gia bảo đảm an sinh xã hội. Nghị quyết 28-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành yêu cầu thực hiện đồng bộ các nội dung cải cách để mở rộng diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân, bảo đảm cân đối Quỹ bảo hiểm xã hội trong dài hạn, điều chỉnh lương hưu độc lập tương đối trong mối tương quan với tiền lương của người đang làm việc, thay đổi cách thức điều chỉnh lương hưu theo hướng chia sẻ…

MỘT SỐ THÀNH TỰU NỔI BẬT TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

Từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD những năm 1990, đến năm 2022, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 3.900 USD, gấp 39 lần. Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều được nâng lên là tiền đề và điều kiện cơ bản để đảm bảo an sinh xã hội, an ninh con người và phát triển con người. Chính sách xã hội đã góp phần quan trọng vào nỗ lực phát triển vượt bậc con người Việt Nam, chỉ số phát triển con người (HDI) tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,703 vào năm 2021, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc gia. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo, từ chỗ hơn 60% dân số nghèo đói (1990) đến năm 2022 tỉ lệ hộ nghèo chỉ còn 2,23%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm khoảng 1,2%; Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%/năm; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4- 5%/năm. Chính sách bảo hiểm xã hội trở thành trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội. Đến hết năm 2022 có 17,5 triệu người tham gia, chiếm tỷ lệ 38,08% lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội. Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng từ 8,27 triệu người năm 2012 lên gần 14,3 triệu người năm 2022, chiếm 31,18% lực lượng lao động trong độ tuổi.

Công tác trợ giúp xã hội cho người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn từng bước chuyển từ quan điểm nhân đạo sang hướng tiếp cận dựa trên quyền được hưởng an sinh của người dân. Các chính sách trợ giúp xã hội đã bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng ở mọi lứa tuổi, chiếm 3,5% dân số và 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên hàng tháng; trẻ em được bảo vệ và chăm sóc, được thực hiện đầy đủ quyền trẻ em và có môi trường sống an toàn; chăm sóc và phát huy tốt hơn vai trò người cao tuổi; người khuyết tật được trợ giúp phục hồi chức năng, đào tạo nghề và tạo việc làm góp phần cải thiện đời sống. Bảo hiểm y tế đã tạo đột phá về tỷ lệ bao phủ.

Đến năm 2022, cả nước có 88,8 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 92,6% dân số; tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ đạt 96%-98%; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần; tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 75,7 tuổi vào năm 2022. Về giáo dục, đã hoàn thành
trước thời hạn phổ cập giáo dục từ cấp mầm non (trẻ 5 tuổi) đến trung học cơ sở; 95% người lớn biết đọc, biết viết; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt 26,1%. Mạng lưới các trường chuyên biệt vùng dân tộc thiểu số và miền núi tiếp tục tăng quy mô, tăng số lượng học sinh được học trong các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú và dự bị đại học.
Các chương trình, chính sách hỗ trợ giáo dục cho con em hộ nghèo, dân tộc thiểu số, vùng khó khăn được triển khai hiệu quả…

MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ CỦA CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HIỆN NAY

Thực hiện chính sách xã hội trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Hệ thống các chính sách xã hội cơ bản đảm bảo công bằng, toàn diện, bao trùm, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, đảm bảo cơ bản quyền an sinh của người dân, góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Song, chính sách xã hội hiện nay vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, như: chính sách bảo hiểm xã hội tỷ lệ bao phủ còn rất thấp; chưa có sự tương trợ, kết nối của các trụ cột chính sách trong tổ chức thực hiện; chênh lệnh mức sống giữa vùng miền, đối tượng còn cao; kết quả giảm nghèo chưa đồng đều, tái nghèo vẫn cao; thiếu liên kết giữa các chính sách trong tổ chức thực hiện. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em chậm được cải thiện; chất lượng dịch vụ y tế chưa tương xứng với tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế, chưa đáp ứng yêu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt khu vực nông thôn, miền núi và công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu… Chất lượng dịch vụ xã hội còn hạn chế, hệ thống cung cấp dịch vụ xã hội, chăm sóc xã hội còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Hệ thống cơ sở dữ liệu, phân công, phân cấp quản lý nhà nước trong quản lý phát triển các chính sách xã hội từ Trung ương đến địa phương còn phân tán, thiếu đồng bộ. Nguồn lực thực hiện chính sách xã hội còn trông chờ nhà nước, chưa có cơ chế kinh tế để huy đông, phân bổ hiệu quả nguồn lực cho phát triển chính sách xã hội…

KIẾN NGHỊ CÁC CHÍNH SÁCH XÃ HỘI CẦN ƯU TIÊN

Một là, quan điểm về chính sách xã hội

Phát triển xã hội mang tính bền vững là hướng đến vì hạnh phúc con người, nhằm mục tiêu vì con người. Cho nên, văn hóa chính là mục tiêu của các chính sách xã hội. Chính sách xã hội hướng đến mục tiêu văn hóa, nhưng khi các vấn đề xã hội được giải quyết tốt, khi đó, vai trò văn hóa với tư cách là động lực sẽ bồi dưỡng nguồn lực con người, cải tạo và xây dựng một xã hội phát triển. Do vậy, mọi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phải mở đường cho văn hóa phát triển, phải tạo ra những điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc vun đắp những giá trị tinh thần tốt đẹp trong nhân dân, vì nhân dân.

Thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội là mục tiêu xây dựng đất nước. Nói đến công bằng xã hội là nói đến sự ngang bằng giữa người với người về phương diện xã hội, như giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. Điều này khẳng định tầm quan trọng và vai trò của công bằng xã hội trong điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Để đạt được mục tiêu công bằng xã hội, chủ thể quản lý cần kiên quyết đấu tranh phòng chống căn bệnh tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Thực hiện sự đồng bộ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển, đảm bảo an sinh xã hội, để Việt Nam thật sự đạt đến mục tiêu phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; chính sách xã hội toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển.

Hai là, cần tiếp tục đổi mới tư duy về chính sách xã hội

Ban hành và thực hiện các chính sách xã hội phải đặt trong tổng thể quản lý phát triển xã hội bền vững; giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, bảo đảm tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, đảm bảo quyền con người. Đầu tư cho thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội là đầu tư cho sự ổn định và phát triển kinh tế, với vai trò nguồn lực nhà nước là chủ đạo, cùng các nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp, xã hội, đóng góp của người dân thông qua các chính sách kinh tế. Từng bước cần nghiên cứu có sự điều tiết vĩ mô chính sách kinh tế gắn với quyền và nghĩa vụ của người dân trong việc thực hiện các chính sách xã hội, cũng như trách nhiệm chính quyền các cấp trong việc ban hành và thực hiện các chính sách xã hội; đồng thời, thực hiện các chính sách xã hội góp phần đảm bảo cân đối dân cư giữa các vùng, miền trên phạm vi cả nước.

Ba là, kết hợp hài hòa giữa chính sách xã hội với thực hiện mục tiêu phát triển bền vững nền kinh tế- xã hội

Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc vì sự phát triển bền vững, theo đó Việt Nam đang nỗ lực để đạt được các Mục tiêu Phát triển Bền vững với 17 Mục tiêu nhằm giải quyết những thách thức phát triển lớn mà người dân Việt Nam, trong đó có các chính sách gắn với chính sách xã hội, như: (1) Chấm dứt mọi hình thức nghèo ở mọi nơi; (2) Xóa đói, bảo đảm an ninh lương thực, cải thiện dinh dưỡng và thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững; (3) Bảo đảm cuộc sống khỏe mạnh và tăng cường phúc lợi cho mọi người ở mọi lứa tuổi; (4) Đảm bảo nền giáo dục có chất lượng, công bằng, toàn diện và thúc đẩy các cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người; (5) Đạt được bình đẳng giới; tăng quyền và tạo cơ hội cho phụ nữ và trẻ em gái; (6) Đảm bảo đầy đủ và quản lý bền vững tài nguyên nước và hệ thống vệ sinh cho tất cả mọi người; (7) Đảm bảo khả năng tiếp cận nguồn năng lượng bền vững, đáng tin cậy và có khả năng chi trả cho tất cả mọi người; (8) Đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, toàn diện, liên tục; tạo việc làm đầy đủ, năng suất và việc làm tốt cho tất cả mọi người; (9) Xây dựng cơ sở hạ tầng có khả năng chống chịu cao, thúc đẩy công nghiệp hóa bao trùm và bền vững, tăng cường đổi mới; (10) Giảm bất bình đẳng trong xã hội; (11) Phát triển đô thị, nông thôn bền vững, có khả năng chống chịu; đảm bảo môi trường sống và làm việc an toàn, phân bổ hợp lý dân cư và lao động theo vùng; (12) Đảm bảo sản xuất và tiêu dùng bền vững; (13) Ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến đổi khí hậu và thiên tai; (14) Bảo tồn và sử dụng bền vững đại dương, biển và nguồn lợi biển để phát triển bền vững; (15) Bảo vệ và phát triển rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, phát triển dịch vụ hệ sinh thái, chống sa mạc hóa, ngăn chặn suy thoái và phục hồi tài nguyên đất; (16) Thúc đẩy xã hội hòa bình, dân chủ, công bằng, bình đẳng, văn minh vì sự phát triển bền vững, tạo khả năng tiếp cận công lý cho tất cả mọi người; xây dựng các thể chế hiệu quả, có trách nhiệm giải trình và có sự tham gia ở các cấp; (17) Tăng cường phương thức thực hiện và thúc đẩy đối tác toàn cầu vì sự phát triển bền vững.

Bốn là, đảm bảo sự gắn kết thực hiện chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội, coi quản lý phát triển xã hội là một bộ phận cấu thành hệ thống các chính sách xã hội

Thực hiện mục tiêu đến năm 2030, nước ta trở thành nước đang phát triến, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; tầm nhìn Việt nam đến 2045 là trở thành quốc gia phát triển, thuộc nhóm các nước có thu nhập cao, Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 nêu về phát triển các chính sách xã hội: “quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng chính sách, người có công, người nghèo, người yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số”; “Phát triển hài hòa giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng miền, ưu tiên các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới hải đảo và các đối tượng chính sách”; “Tiếp tục thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nhất là cho những người yếu thế, người nghèo”, theo đó cần tập trung vào quản lý phát triển xã hội đòi hỏi cần nghiên cứu ban hành chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển chính sách xã hội gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội trong từng thời kỳ; cần đổi mới cơ chế phân công, phân cấp trong huy động, phân bổ, tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về thực hiện các chính sách xã hội và nghiên cứu đổi mới bộ máy tổ chức các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong quản lý phát triển xã hội cho phù hợp giai đoạn phát triển mới. Ngoài ra, cần có cơ chế chủ động nghiên cứu, nắm bắt và dự báo được những vấn đề chính sách xã hội sẽ nảy sinh, dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội cũng chính sách huy động nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã hội và thực hiện chính sách xã hội.

Hiện đại hóa hệ thống quản lý xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách xã hội. Vì vậy, cần tăng cường công tác rà soát, tích hợp chính sách, giảm chồng chéo, trùng lắp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nâng cao hiệu quả quản lý và tổ chức thực hiện chính sách xã hội; thống nhất số hóa cơ sở dữ liệu; phát triển hệ thống thông tin quản lý và các ứng dụng; xây dựng cơ chế quản lý, cập nhật, khai thác, chia sẻ dữ liệu và thông tin. Cải cách mạnh mẽ tài chính đối với chính sách xã hội trên cơ sở quản trị hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, sử dụng khoa học công nghệ, thanh toán điện tử thông qua hệ thống hóa, thống nhất triển khai trên nền tảng cơ sở dữ liệu tập trung. Nhà nước đảm bảo nguồn lực thực hiện chính sách xã hội và huy động sự đóng góp, tham gia của toàn xã hội.

Năm là, phát triển phúc lợi xã hội bao trùm cần ưu tiên hướng đến trong các chính sách xã hội

Phúc lợi xã hội bao trùm gắn kết chặt chẽ nhiều lĩnh vực, nhưng chủ yếu là bảo đảm các nhu cầu cơ bản, thiết yếu về giáo dục, y tế, văn hóa, nhà ở xã hội, giao thông công cộng, phúc lợi cho người lao động. Trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, việc tăng cường phúc lợi xã hội đã trở nên cần thiết để nhà nước có thể đáp ứng những nhu cầu của người dân. Cần tập trung vào những vấn đề thiết yếu nhất của người dân lao động, bảo đảm các thành phần kinh tế được công bằng và khuyến khích người dân tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển nước nhà. Giáo dục là nội dung quan trọng hàng đầu của phúc lợi xã hội, bảo đảm nguồn nhân lực có chất lượng và hạ tầng xã hội cho phát triển đất nước, thúc đẩy công bằng về cơ hội phát triển đối với mọi thành viên xã hội.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh tính hiệu quả khi tăng mức đầu tư cho giáo dục, tức xác định chi ngân sách cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, tăng chi là cần thiết nhưng phải bảo đảm chi đúng đối tượng, đúng hạng mục chuyên môn, thay vì chi dựa trên tổng biên chế của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị mà không phân khai rõ hiệu quả của đối tượng thụ hưởng. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nêu rõ, cần thực hiện xã hội hóa giáo dục đúng hướng, mà vấn đề lớn là phân loại rõ đâu là hoạt động giáo dục theo yêu cầu của cá nhân người học cùng khả năng chi trả tài chính tương ứng, đâu là hoạt động giáo dục phi lợi nhuận gắn với cơ chế, chính sách tương ứng của Nhà nước. Đối với hoạt động giáo dục phi lợi nhuận, cần sự hỗ trợ của Nhà nước không chỉ chính sách, mà cả nguồn lực, như mặt bằng đất đai mở trường, miễn thuế cho những trường hợp sử dụng thu nhập cá nhân hoặc tài sản thừa kế để đầu tư cho phát triển giáo dục… Giáo dục mầm non có vai trò đặc biệt quan trọng trong bảo đảm phúc lợi xã hội, có lúc, có nơi đã từng thả nổi cho thị trường, dẫn tới những hệ lụy đáng tiếc, như giáo viên bạo hành trẻ nhỏ, chế độ nuôi dưỡng không bảo đảm dinh dưỡng và vệ sinh, an toàn thực phẩm, thiếu phương pháp, phương tiện phù hợp với đặc điểm “giáo dục sớm”… Trong cơ chế thị trường, cần khuyến khích khu vực ngoài công lập đầu tư phát triển các trường đáp ứng yêu cầu những gia đình có khả năng chi trả tài chính gắn với những điều kiện tốt về cơ sở vật chất trường lớp, thiết bị giáo dục, đưa đón học sinh, chế độ bữa ăn,… nhưng các tiêu chuẩn cơ bản (chất lượng giáo viên, tài liệu học tập, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, điều kiện nuôi dạy…) thì không thể có sự phân biệt giữa khu vực công và khu vực tư.. Hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe bảo đảm phòng ngừa dịch bệnh hiệu quả, đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho người dân mà không làm “nghèo hóa” người có thu nhập thấp, nhờ bảo hiểm y tế toàn dân và giá dịch vụ y tế được kiểm soát bởi vai trò Nhà nước thể hiện tính chất phúc lợi xã hội tiến bộ, hiệu quả và nhân văn. Phúc lợi văn hóa được bảo đảm bằng phát triển các thiết chế văn hóa mang tính chất dịch vụ công cộng mà người thụ hưởng được miễn phí hoặc phí sử dụng thấp; được hưởng thụ các giá trị văn hóa cộng đồng, như công viên, lễ hội, tham quan các di tích, tín ngưỡng, tôn giáo do cộng đồng tự quản; được tiếp cận các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, thể thao miễn phí qua các kênh truyền thông công cộng. Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các khu công nghiệp. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân… Đây là những vấn đề rất lớn về phúc lợi xã hội cần chăm lo phát triển vì con người thông qua phát triển hạ tầng xã hội. Phát triển phúc lợi nhằm không ngừng nâng cao chất lượng sống và hạnh phúc của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển, góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước./.

Theo Hương Sen Việt